Thẩm quyền điều tra hình sự của Viện Kiểm sát (Viện Công tố) ở một số quốc gia trên thế giới

(LSVN) - Bài viết giới thiệu về thẩm quyền điều tra hình sự của Viện Kiểm sát (Viện Công tố) ở Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Cộng hòa Hàn Quốc, Liên bang Nga, Cộng hòa liên bang Đức và Mỹ. Từ đó đưa ra quan điểm đối với đề xuất bỏ cơ quan điều tra của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao tại Việt Nam.

Ở Trung Quốc

Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Điều 129 quy định: "Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là cơ quan giám sát pháp luật của nhà nước". Điều 131 quy định về các cấp của VKSND và Điều 135 quy định mối quan hệ giữa các cơ quan Tòa án, VKSND và Công an trong việc xử lý các vụ án hình sự phải phân công trách nhiệm, phối hợp, chế ước lẫn nhau nhằm bảo đảm việc thi hành pháp luật đúng đắn và có hiệu quả.

Theo các quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức VKSND năm 1983, Luật về Kiểm sát viên nhân dân năm 1995 (được sửa đổi năm 2001) và Quy tắc tố tụng hình sự đối với các VKSND năm 1999 đã quy định về cơ cấu tổ chức của VKSND các cấp trong việc thực hiện các thẩm quyền về tố tụng hình sự. Theo đó, VKSNDTC có các đơn vị: Cục Điều tra, Cục Thực hành quyền công tố, Cục Phòng chống tham nhũng, Cục Trại giam và trung tâm giam giữ, Cục Kháng cáo hình sự, Cục Khiếu nại và buộc tội, Cục Kiểm sát giao thông đường sắt, Cục Phòng ngừa tội phạm do công chức nhà nước thực hiện và Viện nghiên cứu chính sách pháp luật.

Về thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự, Điều 18 BLTTHS năm 1996 và Điều 8 Quy tắc tố tụng hình sự đối với VKSND năm 1999 quy định VKSND có thẩm quyền khởi tố và trực tiếp điều tra các tội phạm được quy định tại Chương VIII và Chương IX Phần các tội phạm của BLHS năm 1997. Cụ thể, Chương VIII quy định về các tội tham ô, hối lộ được quy định từ Điều 382 đến Điều 396; Chương IX quy định về các tội chức vụ, được quy định từ Điều 397 đến Điều 419, bao gồm các tội cán bộ nhà nước lạm dụng chức vụ, quyền hạn gây tổn thất cho tài sản công cộng, lợi ích của nhà nước và nhân dân, vi phạm quy định về bảo vệ bí mật quốc gia, bắt giam trái pháp luật, bức cung, nhục hình, mưu hại và khám xét trái phép và tội xâm phạm quyền dân chủ của công dân.

Trong trường hợp VKSND đang điều tra vụ án mà người bị tình nghi phạm nhiều tội, trong đó tội nghiêm trọng nhất thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan Công an thì vụ việc phải được chuyển cho cơ quan Công an, VKSND sẽ hỗ trợ điều tra. Trong trường hợp ngược lại thì cơ quan Công an phải chuyển vụ việc cho VKSND và hỗ trợ việc điều tra của cơ quan này.  

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa. 

Ở Indonesia

Cơ quan Công tố Indonesia bao gồm Văn phòng Tổng Công tố, trụ sở tại Jakarta. Văn phòng Công tố cấp cao đặt tại thành phố trung tâm của mỗi tỉnh trong số 34 tỉnh và các Văn phòng công tố quận đặt tại các quận. Tổng Công tố có vị trí ngang với Bộ trưởng, độc lập với Bộ trưởng Pháp luật và nhân quyền (trước đó bộ này gọi là Bộ Tư pháp), cả hai đều báo cáo trực tiếp lên Tổng thống.

Theo Điều 30 Luật Công tố viên năm 2004, trong các vụ án hình sự, công tố viên có nhiệm vụ và quyền hạn như sau:

- Khởi tố vụ án;

- Thi hành lệnh của thẩm phán và quyết định có hiệu lực bắt buộc của tòa án;

- Giám sát việc thi hành các quyết định hình sự có điều kiện, các quyết định giám sát và tha có điều kiện;

- Điều tra các tội phạm theo quy định của pháp luật;

- Phối hợp với điều tra viên cảnh sát hoàn tất hồ sơ vụ án, bao gồm cả điều tra bổ sung theo chỉ đạo trước khi chuyển cho tòa án.

Về thẩm quyền điều tra dược quy định tại điểm d nêu trên, theo quy định của BLTTHS năm 1981 thì công tố viên có thẩm quyền điều tra các tội phạm liên quan đến tham nhũng, buôn lậu và lật đổ chính quyền.

Ở Nhật Bản

Hệ thống cơ quan công tố ở Nhật Bản cũng được tổ chức tương tự như hệ thống Tòa án. Cụ thể, Văn phòng Công tố Tối cao là cơ quan cao nhất của hệ thống công tố, tiếp theo là 8 Văn phòng công tố cấp cao đặt tại 8 thành phố lớn, dưới đó là 50 văn phòng công tố cấp tỉnh với 203 chi nhánh trên toàn quốc (Nhật Bản có 47 tỉnh, mỗi tỉnh có một cơ quan công tố, riêng tỉnh đảo Hokkaido do địa hình phức tạp nên có 4 cơ quan công tố).

Pháp luật quy định nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan Công tố như sau: Văn phòng công tố chi nhánh và Công tố cấp tỉnh ra quyết định truy tố ban đầu, công tố viên tại các văn phòng này tham gia vào quá trình điều tra và cả trực tiếp điều tra. 8 văn phòng công tố cấp cao giám sát hoạt động của các văn phòng công tố tỉnh và các công tố chi nhánh tại khu vực thuộc thẩm quyền của mình, đồng thời hỗ trợ các văn phòng công tố đó hoạch định kế hoạch thực hiện công việc.

Văn phòng công tố cấp cao cũng giúp xem xét việc kháng nghị bản án của tòa án tỉnh và tòa chi nhánh của tòa án này. Đặc biệt, Văn phòng công tố cấp cao có vai trò lớn trong việc ra quyết định đối với các vụ án nhạy cảm về chính trị, nhất là những vụ án mà nghi can, bị can hay người bị hại là những nhân vật tầm cỡ. Cơ quan Công tố Tối cao có chức năng xem xét và giám sát quyết định của các cơ quan công tố cấp dưới và thực hiện việc chỉ đạo, hoạch định chính sách công tố cho toàn hệ thống công tố.

Như đã nói ở trên, công tố viên ở cơ quan Công tố cấp tỉnh và ở các chi nhánh của nó có quyền hạn trực tiếp điều tra vụ án hình sự. Pháp luật Nhật Bản cho phép cơ quan công tố điều tra mọi loại tội phạm. Tuy nhiên, cơ quan công tố thường không điều tra các tội bạo hành, ma túy và giao thông. Trong trường hợp trực tiếp điều tra vụ án, theo quy định tại Điều 193 BLTTHS, Công tố viên có thể chỉ đạo cho cảnh sát tư pháp hỗ trợ việc điều tra.

Ngoài ra, Nhật Bản còn thành lập ba cơ quan điều tra đặc biệt thuộc văn phòng Công tố Tokyo, Nagoya và Osaka để điều tra hai loại tội phạm liên quan đến chính trị và các vụ án cần phải có chuyên môn đặc biệt. Cơ chế nhị nguyên cảnh sát – công tố trong lĩnh vực điều tra là một trong những đặc tính quan trọng của tổ chức điều tra tội phạm ở Nhật Bản.

Ở Hàn Quốc

Điều 4 Đạo luật cơ quan công tố của Hàn Quốc quy định quyền hạn và nhiệm vụ của các công tố viên như sau:

- Tiến hành điều tra hình sự, truy tố và trình bày vụ án hình sự tại tòa;

- Chỉ đạo và giám sát cảnh sát về điều tra hình sự;

- Yêu cầu tòa án áp dụng luật một cách công bằng;

- Chỉ đạo và giám sát việc thi hành các quyết định của tòa án;

- Tiến hành, chỉ đạo hoặc giám sát vụ kiện hoặc phân xử trọng tài khi có liên quan đến nhà nước;

- Các quyền hạn được trao theo luật hoặc quy định khác.

Theo quy định nêu trên và theo quy định của BLTTHS cũng như các quy định pháp luật khác, việc điều tra hình sự ở Hàn Quốc do các nhân viên cảnh sát tư pháp, công tố viên và trợ lý công tố viên tiến hành. Theo đó, cả công tố viên và nhân viên cảnh sát tư pháp đều có thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự. Tuy nhiên, trên thực tế công tố viên không thể điều tra tất cả các tội phạm do khả năng có hạn. Do đó, công tố viên chỉ điều tra những vụ án phức tạp hay tội phạm cổ cồn trắng như hối lộ quy mô lớn liên quan đến chính trị gia hoặc công chức cấp cao, tội phạm kinh tế, ma túy, môi trường, vụ án liên quan đến tội phạm có tổ chức và trốn thuế.

Mặc dù có tới 97% các vụ án hàng năm do nhân viên cảnh sát tư pháp điều tra ban đầu, nhưng theo quy định tại Điều 195 BLTTHS, cảnh sát phải báo cáo các vụ án quan trọng cho công tố viên và tiến hành điều tra theo chỉ thị của công tố viên. Nói chung, đối với các vụ án hình sự, sau khi kết thúc điều tra ban đầu của cảnh sát, hồ sơ vụ án được chuyển cho văn phòng công tố và công tố viên sẽ tiếp tục điều tra bằng cách thẩm vấn bị can và những người có liên quan, nghiên cứu hồ sơ và các chứng cứ. Khi kết thúc điều tra, công tố viên phụ trách sẽ quyết định có khởi tố bị can hay không. Quy trình này nhằm buộc công tố viên chịu trách nhiệm đảm bảo rằng cảnh sát tuân thủ pháp luật và thực hiện đúng trình tự trong quá trình điều tra.

Ở Liên bang Nga

Khoản 1 Điều 129 Hiến pháp Liên bang Nga quy định: "Viện Kiểm sát Liên bang Nga là một hệ thống tập trung thống nhất với sự phục tùng của kiểm sát viên cấp dưới đối với kiểm sát viên cấp trên và Viện trưởng Viện Kiểm sát Liên bang Nga".

Như vậy, cũng như Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Hiến pháp Liên bang Nga không quy định Viện Kiểm sát có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự. Thẩm quyền này lại được quy định ở những đạo luật khác. Theo quy định tại Điều 150 BLTTHS Liên bang Nga, việc điều tra vụ án hình sự được thực hiện dưới hai hình thức: Điều tra ban đầu và điều tra dự thẩm. Việc điều tra ban đầu được tiến hành với những tội phạm được liệt kê cụ thể tại khoản 3 điều này. Điểm 3 khoản 2 Điều 37 BLTTHS quy định trong thủ tục điều tra ban đầu, kiểm sát viên có thẩm quyền "tham gia vào quá trình điều tra và trong những trường hợp cần thiết trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra". Theo quy định này thì trong thủ tục điều tra ban đầu, kiểm sát viên không có thẩm quyền điều tra vụ án. Điều này cũng được thể hiện rõ tại Điều 40 khi quy định các cơ quan có thẩm quyền điều tra ban đầu.

Ngoài những vụ án về các tội phạm được liệt kê tại khoản 3 Điều 150, điều tra dự thẩm là bắt buộc đối với những vụ án hình sự khác. Các cơ quan có thẩm quyền điều tra dự thẩm được quy định tại khoản 2 Điều 151 gồm: Viện Kiểm sát, Cơ quan an ninh liên bang, Cơ quan nội vụ liên bang, Cơ quan cảnh sát thuế vụ. Theo điểm 1, khoản 2 Điều này, Dự thẩm viên của Viện Kiểm sát có thẩm quyền điều tra đối với khoảng 50 loại tội phạm, được liệt kê cụ thể tại điều luật, như: tội khủng bố, tội bạo loạn, tội lập hội xâm phạm đến cá nhân và quyền công dân, tội lạm dụng chức vụ quyền hạn, tội lạm quyền, tội tiếm quyền, tội cản trở việc thi hành hoạt động tư pháp và cản trở hoạt động điều tra ban đầu, tội bắt giữ người trái pháp luật, tội bức cung và nhục hình…

Và những tội phạm mà người thực hiện là những người có chức vụ, quyền hạn của cơ quan an ninh Liên bang, cơ quan tình báo đối ngoại Liên bang Nga, Văn phòng thông tin liên lạc nội các liên bang trực thuộc Tổng thống liên bang, lực lượng phòng vệ Liên bang của Liên bang Nga, các cơ quan nội vụ Liên bang Nga, các công sở của hệ thống cơ quan thi hành án hình sự trực thuộc Bộ Tư pháp Liên bang Nga, cơ quan cảnh sát thuế vụ các cơ quan hải quan Liên bang Nga, quân nhân, công dân được trưng tập phục vụ trong quân đội, những nhân viên dân sự của lực lượng vũ trang Liên bang Nga, các lực lượng quân sự khác và trong các cơ quan liên quan đến việc thực hiện công vụ của họ hoặc ở trong các đơn vị, quân đoàn, cơ quan, doanh trại cũng như về những tội phạm thực hiện đối với những người nói trên liên quan đến việc thực hiện công vụ của họ.

Dự thẩm viên của Viện Kiểm sát cũng có thẩm quyền điều tra theo thủ tục đặc biệt về những tội phạm do một số chủ thể đặc biệt thực hiện và những tội phạm thực hiện đối với họ mà có liên quan đến hoạt động chuyên môn của họ  như: Thành viên Hội đồng Liên bang và đại biểu Đuma Quốc gia, đại biểu cơ quan lập pháp (đại diện) của chính quyền nhà nước của chủ thể Liên bang Nga, đại biểu, thành viên cơ quan tự quản địa phương được bầu, người được bầu giữ chức vụ của cơ quan tự quản địa phương; Thẩm phán Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga, Thẩm phán Tòa án Liên bang, Thẩm phán hòa giải và Thẩm phán tòa án Hiến pháp của chủ thể Liên bang Nga; Tổng kiểm toán Ủy ban kiểm toán Liên bang Nga, cấp phó và các thành viên Ủy ban kiểm toán Liên bang Nga; Người đại diện toàn quyền về các quyền con người của Liên bang Nga; tổng thống Liên bang Nga đã từ nhiệm cũng như ứng cử viên Tổng thông Liên bang Nga; kiểm sát viên; dự thẩm viên; luật sư.

Ở CHLB Đức

BLTTHS của CHLB Đức có những quy định về quyền hạn của cơ quan công tố như sau:

Điều 160. Nghĩa vụ làm rõ tình tiết

Ngay khi cơ quan công tố biết được một hành vi phạm tội bị nghi ngờ, hoặc là thông qua báo cáo về hành vi phạm tội hoặc bằng các phương tiện khác, cơ quan này phải điều tra tình tiết để quyết định xem có nên áp dụng cáo buộc công khai hay không.

Cơ quan công tố phải xác định cả những tình tiết buộc tội và gỡ tội và đảm bảo thu thập được những bằng chứng có nguy cơ bị mất đi.

Về nguyên tắc, cuộc điều tra do cơ quan công tố tiến hành cũng bao gồm những tình tiết quan trọng để xác định hậu quả pháp lý của hành vi. Để đạt được điều đó, cơ quan công tố có thể sử dụng dịch vụ của cơ quan hỗ trợ tòa án.

Điều 161. Quyền điều tra chung của cơ quan công tố

Vì mục đích nêu tại điều 160 khoản (1) đến (3), cơ quan công tố có quyền yêu cầu thông tin từ tất cả các cơ quan và tiến hành điều tra dưới bất kỳ hình thức nào, hoặc tự mình thông qua các cơ quan cảnh sát và cảnh sát, miễn là không có quy định pháp luật nào khác quy định cụ thể về quyền hạn của họ. Các cơ quan cảnh sát và cảnh sát có nghĩa vụ tuân thủ yêu cầu hoặc lệnh của cơ quan công tố và có quyền yêu cầu thông tin từ tất cả các cơ quan trong những trường hợp đó.

… (các khoản 2, 3, 4, 5).

Theo những quy định này thì ở CHLB Đức, công tố viên có thẩm quyền điều tra đối với mọi loại tội phạm.

Ở Mỹ

Mô hình tố tụng hình sự của Mỹ là mô hình tố tụng tranh tụng, không có BLTTHS như ở các nước theo truyền thống luật dân sự. Theo các nguyên tắc liên bang về tố tụng hình sự do Tòa án Tối cao ban hành, các bang sẽ ban hành các quy tắc về tố tụng hình sự của bang mình. Mặc dù cả nước có tới 50 bộ quy tắc về tố tụng hình sự, nhưng các bộ quy tắc này đều có những điểm chung thống nhất về thủ tục giải quyết một vụ án hình sự.

Thẩm phán Russenll F. Canan, Tòa án Columbia cho biết ở Mỹ, công tố viên có chức năng truy tố trong phạm vi quyền hạn của mình. Công tố viên là người duy trì công lý đồng thời vừa đóng vai trò như là người luật sư và cán bộ tòa án; trách nhiệm của công tố viên là tìm kiếm sự công bằng chứ không phải chỉ để buộc tội.

Về trách nhiệm điều tra độc lập, thông thường công tố viên dựa vào kết quả điều tra của cảnh sát hoặc các cơ quan điều tra khác về các tội phạm cụ thể. Tuy nhiên, công tố viên cũng có trách nhiệm điều tra những hành vi phạm tội nếu thấy rằng việc điều tra của cơ quan khác là không phù hợp. Để thực hiện việc điều tra độc lập của mình, công tố viên có quyền tuyển dụng những người có chuyên môn và những những người hỗ trợ cần thiết khác, công tố viên cũng được cung cấp tài chính cho việc mời các chuyên gia có trình độ cần thiết cho những vụ  án cụ thể (1). Như vậy, ở Mỹ công tố viên cũng có quyền điều tra độc lập mặc dù là rất hạn chế.

Kết luận

Qua giới thiệu ở trên cho thấy, nói chung những nước theo truyền thống luật dân sự, kiểm sát viên (hoặc công tố viên) đều có thẩm quyền điều tra độc lập về hình sự. Mỹ là nước theo truyền thống luật thông pháp nhưng công tố viên cũng có quyền này. Thẩm quyền điều tra của kiểm sát viên hoặc của công tố viên thường tập trung vào các tội tham nhũng và các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Việc quy định thẩm quyền này của các quốc gia là thực hiện theo khuyến nghị của Ủy ban quyền con người của LHQ: "Quốc gia thành viên cần thiết lập một cơ quan độc lập đủ thẩm quyền tiếp nhận và điều tra tất cả các báo cáo về việc sử dụng quyền lực quá mức và lạm quyền của cảnh sát và các lực lượng an ninh khác, sau đó, nếu thấy đầy đủ các yếu tố cấu thành, phải thực hiện truy tố những người có trách nhiệm"(2).

Về vấn đề này, cũng cần nói thêm là, một bình luận về Điều 12 Công ước LHQ về chống tra tấn cũng viết: "Điều 12 yêu cầu rằng điều tra phải nhanh chóng và vô tư. Tính nhanh chóng là thiết yếu để bảo đảm rằng nạn nhân không còn phải là đối tượng của hành vi đó nữa, và nói chung, trừ khi biện pháp sử dụng có tác động lâu dài hoặc nghiêm trọng, việc tra tấn, đối xử hà khắc, phi nhân tính và nhục mạ sẽ sớm biến mất.

Để đảm bảo tính vô tư, không được giao việc điều tra cho người có quan hệ cá nhân hoặc nghề nghiệp với nghi can đã thực hiện hành vi đó, hoặc có lợi ích trong việc bảo vệ nghi can hay cho tổ chức cụ thể mà nghi can tham gia. Ví dụ, nếu khiếu nại là đối với một cảnh sát, thì không được phân công các đồng nghiệp gần gũi hoặc nhà chuyên môn có lợi ích cá nhân trong vụ việc làm thành viên nhóm điều tra" (3).

Kết luận đánh giá của Ủy ban chống tra tấn đối với Báo cáo quốc  gia đầu tiên của Việt Nam cũng quy định: "15. Quốc gia thành viên nên …c) Thiết lập một cơ chế độc lập để thực hiện việc giám sát đối với cảnh sát và các cơ quan có liên quan để không có bất kỳ liên hệ về mặt tổ chức hoặc thứ bậc giữa điều tra viên và người phạm tội, và bảo đảm rằng tất cả những người bị điều tra vì thực hiện hành vi tra tấn hoặc ngược đãi bị đình chỉ ngay lập tức khỏi chức vụ và được giữ như vậy trong suốt toàn bộ quá trình điều tra, trong khi bảo đảm tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội..." (4).

Như vậy, việc quy định kiểm sát viên hoặc công tố viên có thẩm quyền điều tra một số loại tội phạm xâm  phạm hoạt động tư pháp là một nghĩa vụ của quốc gia  thành viên LHQ, và là một thông lệ quốc tế có ý nghĩa quan trọng bảo đảm cho việc điều tra vụ án được công bằng, khách quan.

Về ý kiến cho rằng, Điều 107 Hiến pháp chỉ quy định: "1. VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp". Do đó, "việc giao cho VKSNDTC thực hiện chức năng điều tra là chưa phù hợp với quy định của Hiến pháp". Chúng ta thấy rằng theo Điều 70 của Hiến pháp thì Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn là “1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật". Và Điều 10 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 19/02/2024 đã quy định: "Quốc hội ban hành luật để quy định: a) Tổ chức và hoạt động của… VKSND…”. Do đó, Luật Tổ chức VKSND được Quốc hội thông qua, trong đó quy định VKSND có thẩm quyền điều tra một số loại tội phạm là hoàn toàn hợp hiến.

Như đã giới thiệu ở trên, chỉ Hiến pháp Trung Quốc và Liên bang Nga có quy định về Viện Kiểm sát, nhưng cũng không quy định về thẩm quyền điều tra hình sự của Viện Kiểm sát. Ở các nước khác đã dẫn ở trên, Hiến pháp còn không quy định gì về cơ quan công tố. Nhưng tất cả các nước trên đều ban hành luật tố tụng hình sự và những luật khác mà trong đó quy định về thẩm quyền điều tra của Viện Kiểm sát và cơ quan công tố. Tất cả những luật này đều không thể bị coi là vi hiến.

Ý kiến nữa cho rằng "Viện Kiểm sát vừa thực hiện quyền công tố, kiểm sát lại vừa thực hiện thẩm quyền điều tra sẽ không bảo đảm được tính khách quan trong quá trình tố tụng hình sự, bảo đảm mối quan hệ chế ước, kiểm soát lẫn nhau giữa cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát". Chúng ta đều hiểu rõ là khi Viện Kiểm sát truy tố vụ án ra Tòa án, thì Tòa án với những thứ bậc xét xử  từ sơ thẩm đến giám đốc thẩm sẽ xem xét vụ án không những về tình tiết mà còn cả về mặt pháp luật, do đó, nếu việc điều tra của Viện Kiểm sát không khách quan, thiên vị (nếu có) thì chắc chắn vụ án sẽ bị loại bỏ.

Có thể thấy là hai ý kiến lập luận để yêu cầu xóa bỏ thẩm quyền điều tra của VKSND đều không xác đáng, và nếu đối chiếu với khuyến nghị của LHQ cũng như thông lệ quốc tế thì những ý kiến này là không phù hợp.

Tài liệu tham khảo

1. Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp ở năm nước chọn lọc (Trung Quốc, Indonesia, Cộng hòa Hàn Quốc) do Đại học SYDNEY thực hiện cho Chương trình phát triển của Liên hợp quốc, Việt Nam, tháng 6 năm 2010;

2. Các BLTTHS của: Nhật Bản, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Liên bang Nga, Cộng hòa Liên bang Đức.

Chú thích:

1. Thẩm phán Russell F. Canan, Tố tụng hình sự trong hệ thống tranh tụng – Vai trò của công tố viên (kỷ yếu tập huấn BLTTHS, do TANDTC, UNDP, Đại sứ quán Anh tại Việt Nam tổ chức), Hà nội 2005.

 2. Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người và Hội Luật sư quốc tế, Quyền con người trong quản lý tư pháp, Tài liệu hướng dẫn quyền con người dành cho Thẩm phán, Công tố viên và Luật sư, NXB Công an nhân dân, tr 975,

3. Sổ tay về nghĩa vụ quốc gia theo Công ước LHQ về chống tra tấn Xuất bản tại Thụy sĩ, tr 51, 52,

4. Ủy ban chống tra tấn Liên hợp quốc, Kết luận đánh giá của Ủy ban chống tra tấn đối với Báo cáo quốc gia đầu tiên của Việt Nam, ngày 28/12/2018.

NGÔ CƯỜNG

Bài viết liên quan