Giá trị phạt cọc và đề xuất góp ý về giá trị phạt cọc theo Dự thảo Nghị quyết “hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đặt cọc”

Thực tiễn giải quyết, xét xử các tranh chấp hợp đồng đặt cọc, đặc biệt liên quan về giá trị phạt cọc trong thời gian qua, các Tòa án chưa có sự thống nhất về nhận thức và áp dụng pháp luật khi các bên có thỏa thuận khác về mức phạt cọc trong hợp đồng đặt cọc, không phải “một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc”, dẫn đến sự tùy nghi, không thống nhất trong việc xác định giá trị phạt cọc (mức phạt cọc) mà do các bên thỏa thuận.

Đặt vấn đề

Phạt cọc là một trong những vấn đề hiện nay còn vướng mắc, bất cập, còn nhiều quan điểm khác nhau trong nhận thức và áp dụng pháp luật của Thẩm phán, Kiểm sát viên khi chưa có văn bản hướng dẫn chính thức của cơ quan có thẩm quyền, đặc biệt khi Dự thảo Nghị quyết về “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đặt cọc” chưa được thông qua. Điều này dẫn đến việc xác định mức phạt cọc hợp lý; chấp nhận hay không chấp nhận mức phạt cọc do các bên tự thỏa thuận trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết, xét xử để bảo đảm sự công bằng, thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Đây là điều bất cập, vướng mắc hiện nay liên quan về giá trị phạt cọc khi Tòa án giải quyết, xét xử, cần sớm có văn bản hướng dẫn kịp thời.

1. Một số cơ sở lý luận về đặt cọc và giá trị phạt cọc

1.1. Về mặt lý luận, hợp đồng đặt cọc là một giao dịch dân sự, và về bản chất, nó là một hợp đồng đối nhân. Điều này có nghĩa là hợp đồng đặt cọc là các bên thỏa thuận về việc một bên (bên đặt cọc) sẽ giao một khoản tiền hoặc tài sản có giá trị cho bên kia (bên nhận đặt cọc) để bảo đảm cho việc giao kết hoặc thực hiện một hợp đồng chính. Theo đó, quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đặt cọc là giữa các bên, liên quan đến việc giao nhận, bảo quản, và xử lý tài sản đặt cọc; hợp đồng đặt cọc phát sinh quyền và nghĩa vụ bên đặt cọc và bên nhận đặt cọc, chứ không phải chỉ liên quan đến một vật thể cụ thể. Hợp đồng đặt cọc không phải là hợp đồng đối vật, mặc dù có tài sản (tiền, vật phẩm) được đặt cọc, nhưng bản chất của hợp đồng không phải là việc chuyển quyền sở hữu tài sản đó. Tài sản đặt cọc chỉ là công cụ để bảo đảm cho giao dịch chính. Ví dụ: Khi đặt cọc chiếc xe ô tô để mua nhà, hợp đồng đặt cọc không chuyển quyền sở hữu nhà cho người mua và tài sản đặt cọc không hẳn chuyển giao quyền sở hữu cho bên nhận cọc nếu hợp đồng chính không được thực hiện trong trường hợp các bên thỏa thuận được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Nó chỉ bảo đảm rằng người bán sẽ không bán nhà đó cho người khác và sẽ thực hiện việc chuyển nhượng nhà khi đến thời hạn.

Và đặt cọc là một giao dịch dân sự; do đó, việc đặt cọc chỉ có hiệu lực khi có đủ các điều kiện về mặt chủ thể tham gia giao dịch, mục đích và nội dung của giao dịch, hình thức của giao dịch quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015. Ngoài ra, việc thỏa thuận đặt cọc phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, trong đó thỏa thuận đặt cọc giữa các bên phải trên cơ sở tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, thỏa thuận giữa các bên được xác lập một cách thiện chí, trung thực.

Hợp đồng đặt cọc là hợp đồng đối nhân, mục đích của hợp đồng là để bảo đảm cho việc giao kết hoặc thực hiện một hợp đồng chính; và việc thỏa thuận phạt cọc chỉ là “điều kiện phụ” nhằm ngăn ngừa trong trường hợp một trong các bên không tuân thủ nguyên tắc thiện chí, trung thực khi thực hiện giao dịch dân sự. Do đó, khi chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề phạt cọc nếu hai bên thỏa thuận phạt cọc gấp đôi số tiền đặt cọc, hoặc thỏa thuận phạt cọc gấp năm, gấp mười hoặc hàng trăm lần giá trị tài sản đặt cọc thì Tòa án sẽ xem xét thiệt hại thực tế mà bên bị vi phạm phải gánh chịu để xem xét, điều chỉnh để bảo đảm tính hợp lý và công bằng, đưa ra quyết định về mức phạt cọc hợp lý trên cơ sở đánh giá mục đích của đặt cọc mà các bên hướng tới dựa trên đánh giá tính thiện chí, trung thực của các bên theo nguyên tắc được quy định của pháp luật dân sự. 

1.2. Về quy định pháp luật

Đặt cọc là một biện pháp bảo đảm và là một giao dịch dân sự, theo đó các bên cam kết sẽ phải chịu thiệt hại về tài sản trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ, được quy định minh thị tại Điều 328 BLDS 2015:

“1. Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng.

2. Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Điều 29 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có quy định:

“1. Hợp đồng bảo đảm bị vô hiệu hoặc bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm.

2. Trường hợp hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu hoặc bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì giải quyết như sau:

a) Các bên chưa thực hiện hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì hợp đồng bảo đảm chấm dứt;

b) Các bên đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì hợp đồng bảo đảm không chấm dứt. Bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thanh toán nghĩa vụ hoàn trả của bên có nghĩa vụ đối với mình”.

Và tại điểm a, c Tiểu mục 1 Mục I Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình quy định: 

“a. Trong trường hợp đặt cọc chỉ để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng hoặc chỉ để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng hoặc vừa để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng vừa để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng thì bên nào có lỗi làm cho hợp đồng không được giao kết hoặc không được thực hiện hoặc bị vô hiệu, thì phải chịu phạt cọc theo quy định tại khoản 2 Điều 363 BLDS”.

“c. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định điều kiện nếu đặt cọc bị vô hiệu là hợp đồng cũng bị vô hiệu, thì hợp đồng đương nhiên bị vô hiệu khi đặt cọc đó bị vô hiệu”.

Từ những quy định trên có thể thấy đặt cọc và hợp đồng có nghĩa vụ được đặt cọc (hợp đồng chính) là hai hợp đồng mang tính tương đối riêng biệt. Không thể lấy lý do hợp đồng đặt cọc vô hiệu, bị hủy bỏ, đơn phương chấm dứt thì hợp đồng có nghĩa vụ cũng bị vô hiệu, bị hủy bỏ, đơn phương chấm dứt và ngược lại. Trong trường hợp đặt cọc chỉ để bảo đảm cho việc giao kết hợp đồng, nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng chính được đặt cọc mới có sự vi phạm làm cho hợp đồng chính không được thực hiện hoặc mới phát hiện hợp đồng chính bị vô hiệu thì không phạt cọc, căn cứ đó là nghĩa vụ được đặt cọc là giao kết hợp đồng đặt cọc đã được thực hiện xong. Đối với những trường hợp khác, bên nào có lỗi dẫn đến hợp đồng chính không được giao kết, không được thực hiện hoặc bị vô hiệu thì phải chịu phạt cọc.

Như vậy, khi có sự vi phạm nghĩa vụ dẫn đến hợp đồng chính không thực hiện được hoặc bị vô hiệu thì trách nhiệm pháp lý của bên vi phạm nghĩa vụ chỉ bị ràng buộc bởi giao dịch đặt cọc (mất tài sản đặt cọc hoặc bị phạt cọc) hay được hiểu bao gồm cả nghĩa vụ do vi phạm hợp đồng (bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm…) như đã quy định “trừ trường hợp có thỏa thuận khác” tại khoản 2 Điều 328 BLDS 2015. Điều này có thể dẫn đến việc tùy nghi thỏa thuận, nhiều cách hiểu và áp dụng pháp luật khác về “thỏa thuận khác” trong quy định phạt cọc nếu không nắm kỹ lý luận về bản chất cũng như mục đích của hợp đồng đặt cọc.

Theo tác giả, thỏa thuận đặt cọc và mục đích hướng tới để thực hiện hợp đồng chính trong thỏa thuận đặt cọc đây là hai giao dịch có tính riêng biệt nên sẽ phát sinh những nghĩa vụ khác nhau tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên trong hai giao dịch. Ví dụ: Hợp đồng chính đã được giao kết nhưng có sự vi phạm dẫn đến vô hiệu (vi phạm điều cấm của luật) thì ngoài nghĩa vụ phạt cọc theo hợp đồng đặt cọc thì giữa các bên vẫn phát sinh nghĩa vụ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại do hợp đồng có nghĩa vụ đặt cọc bị vô hiệu.

Pháp luật dân sự không quy định mức tối thiểu, mức tối đa của giá trị đặt cọc và giá trị phạt cọc. Đặt cọc là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, do đó bên nào có lỗi vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền, phải bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần được quy định tại Mục 4 Phần thứ ba - Nghĩa vụ và hợp đồng. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 328 BLDS 2015 đã quy định rõ cho từng trường hợp, từng chủ thể xử lý phần tài sản đặt cọc, trong đó vế câu ghép thứ ba dành cho chủ thể là “bên nhận đặt cọc” nếu vi phạm thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị giá trị tài sản đã đặt cọc, “trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

2. Vướng mắc, bất cập về xác định mức phạt cọc

Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể thi hành áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đặt cọc, đặc biệt vấn đề liên quan đến phạt cọc hay không phạt cọc quy định tại khoản 2 Điều 328 BLDS 2015 nên thực tiễn giải quyết, xét xử các tranh chấp hợp đồng đặt cọc, dẫn đến trường hợp có Tòa án chưa chấp nhận mức thỏa thuận khác (mức phạt cao hơn khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc - một phạt hai hoặc nhiều lần), có Tòa chỉ chấp nhận mức phạt cọc là khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc (một đền một).

Qua nghiên cứu bài viết “Một số vấn đề về đặt cọc và vướng mắc” của tác giả Nguyễn Văn Huy. Bài viết nêu quan điểm rằng “pháp luật quy định tiền phạt cọc phải bằng hoặc thấp hơn giá trị tài sản đặt cọc - bảo đảm tính ngang bằng về nghĩa vụ thiệt hại về tài sản”, tác giả đồng tính với quan điểm này, bởi các lẽ:

Thứ nhất, về mặt lý luận và các nguyên tắc dân sự như đã phân tích nêu trên, hợp đồng đặt cọc là hợp đồng đối nhân, mục đích của hợp đồng đặt cọc là để bảo đảm cho việc giao kết hoặc thực hiện một hợp đồng chính dựa trên nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là khi thực hiện giao dịch dân sự các bên phải thiện chí, trung thực, mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về quyền tài sản; và việc thỏa thuận phạt cọc chỉ là “điều kiện phụ” nhằm ngăn ngừa trong trường hợp một trong các bên không tuân thủ nguyên tắc thiện chí, trung thực.

Thứ hai, việc cấu trúc, kết cấu về ngữ pháp của điều luật quy định tại khoản 2 Điều 328 BLDS thì có dấu (;) ngăn cách giữa vế câu ghép, liệt kê các bộ phận câu ghép để phân tách các mục “Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”  và trong mỗi vế câu ghép đều có dấu “,” dùng để tách các vế câu hoặc làm trạng ngữ bổ sung ý nghĩa cho một thành phần của vế câu ghép. Và mỗi vế câu đều cấu thành đầu đủ các bộ phận giả định, quy định và chế tài. Vế câu ghép thứ nhất dành cho trường hợp thỏa thuận đặt cọc đã hoàn thành; vế câu ghép thứ hai dành cho chủ thể là “bên đặt cọc” nếu vi phạm thì sẽ bị chế tài là “tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc”; và vế câu ghép thứ ba dành cho chủ thể là “bên nhận đặt cọc” nếu vi phạm thì sẽ bị chế tài “trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

 Như vậy, nếu gắn lý luận dựa trên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và đặt trong cấu trúc, kết cấu về mặt ngữ pháp tại vế câu ghép thứ ba của khoản 2 Điều 328 BLDS, chúng ta có thể thấy rõ rằng hàm ý của nhà làm luật đưa cụm từ “trừ trường hợp có thỏa thuận khác” đứng sau dấu “,” của vế câu ghép “nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc” chỉ điều chỉnh đối với trường hợp người nhận cọc có lỗi; và để bảo đảm sự bình đẳng, không lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử theo nguyên tắc chung của pháp luật dân sự được quy định tại Điều 3 BLDS, thì chế tài dành cho “bên đặt cọc” và “bên nhận đặt cọc” là phải bình đẳng nhau. Nghĩa là, khi bên đặt cọc vi phạm thì toàn bộ tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận cọc và ngược lại nếu bên nhận cọc vi phạm thì cũng phải chịu chế tài tương xứng, bảo đảm tính ngang bằng về trách nhiệm của bên nhận cọc và bên đặt cọc khi có lỗi vi phạm hợp đồng, tránh trường hợp lợi dụng sự thiếu hiểu biết pháp luật của bên nhận cọc hoặc lợi dụng sự thiếu trung thực, thiện chí trong quá trình thực hiện thỏa thuận giao kết hợp đồng chính dẫn đến bên nhận đặt cọc bị phạt cọc rất nhiều lần. Chẳng hạn như tài sản đặt cọc là quyền sử dụng đất chung hoặc tài sản thuộc quyền sở hữu chung, bên nhận cọc “tự tin” có thể thay mặt cho toàn bộ các chủ thể có quyền sử dụng, sở hữu chung đó; bên đặt cọc biết nhưng vẫn yêu cầu bên nhận cọc ký kết thỏa thuận đặt cọc, và khi các chủ thể khác không đồng ý thì buộc bên nhận cọc phải từ chối thực hiện hợp đồng; và chắc chắn rằng hợp đồng không thể thực hiện trong trường hợp này.

Dưới góc độ phân tích luật viết, cùng phương pháp so sánh dựa trên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, thấy rằng cụm từ “trừ trường hợp có thỏa thuận khác” được gắn với nhiều điều luật quy định tại BLDS, đặc biệt được quy định hầu như ở một số điều trong Phần thứ Ba - Nghĩa vụ và hợp đồng, cụm từ này không định lượng cụ thể về chế tài mà một bên phải chịu khi vi phạm nghĩa vụ để thấy rõ rằng kỹ thuật lập pháp “trừ trường hợp có thỏa thuận khác” trong trường hợp phạt cọc quy định tại khoản 2 Điều 328 BLDS là một dạng chế tài do bên nhận cọc vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên. Nghĩa là, thỏa thuận khác phải dựa trên nguyên tắc thiện chí, trung thực, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên khi xác lập giao dịch dân sự. Khi xảy ra tranh chấp, Tòa án sẽ xem xét thiệt hại thực tế mà bên bị vi phạm phải gánh chịu để xác định mức phạt cọc hợp lý và công bằng trên cơ sở đánh giá mục đích của đặt cọc mà các bên hướng tới, tính thiện chí, trung thực của các bên khi ký kết hợp đồng đặt cọc. Những điều khoản thỏa thuận không rõ ràng dẫn đến tranh chấp đặt trong bối cảnh điều luật không định lượng cụ thể thì cần phải được giải thích một cách rõ ràng khi xem xét, giải quyết.

Khoản 1 Điều 121 BLDS 2015 về giải thích giao dịch dân sự quy định:

“Giao dịch dân sự có nội dung không rõ ràng, khó hiểu, được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau … thì việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây: a) Theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch; b) Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch; c) Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập”.

Và Điều 404 BLDS 2015 về giải thích hợp đồng quy định:

“1. Khi hợp đồng có điều khoản không rõ ràng thì việc giải thích điều khoản đó không chỉ dựa vào ngôn từ của hợp đồng mà còn phải căn cứ vào ý chí của các bên được thể hiện trong toàn bộ quá trình trước, tại thời điểm xác lập, thực hiện hợp đồng.

2. Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau thì phải giải thích theo nghĩa phù hợp nhất với mục đích, tính chất của hợp đồng.

3. Khi hợp đồng có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu thì phải được giải thích theo tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng.

4. Các điều khoản trong hợp đồng phải được giải thích trong mối liên hệ với nhau, sao cho ý nghĩa của các điều khoản đó phù hợp với toàn bộ nội dung hợp đồng.

5. Trường hợp có sự mâu thuẫn giữa ý chí chung của các bên với ngôn từ sử dụng trong hợp đồng thì ý chí chung của các bên được dùng để giải thích hợp đồng.

6. Trường hợp bên soạn thảo đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên kia thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên kia”.

Tóm lại, khi một thỏa thuận trong giao dịch dân sự, trong hợp đồng nói riêng không rõ ràng, cũng như một phần quy định trong điều luật không rõ ràng dẫn đến nhiều cách hiểu, vận dụng khác nhau cần có văn bản hướng dẫn, giải thích cụ thể để giải quyết các tranh chấp xảy ra một cách công bằng và hợp lý.

3. Đề xuất, kiến nghị

Từ những phân tích về mặt lý luận, phân tích điều luật quy định, cũng như thực tiễn giải quyết, xét xử các vụ án liên quan đến việc xác định giá trị phạt cọc, theo tác giả việc bảo đảm tính ngang bằng về nghĩa vụ thiệt hại về tài sản theo quan điểm của tác giả Nguyễn Văn Huy là phù hợp. Khi chưa có văn bản quy phạm pháp luật quy định về mức giới hạn của đặt cọc và phạt cọc thì việc áp dụng pháp luật còn gây nhiều quan điểm trái chiều; cần có sự điều chỉnh, sửa đổi, quy định rõ để thống nhất áp dụng pháp luật.

Qua nghiên cứu Điều 6 về phạt cọc và không phạt cọc của Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đặt cọc, tác giả xin góp ý, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số ý kiến như sau:

Một là, xây dựng bố cục của Dự thảo Nghị quyết phù hợp, khoa học theo hướng không thỏa thuận phạt cọc quy định trước khoản quy định phạt cọc, theo đó khoản 2 của Dự thảo cần thiết sửa đổi thành khoản 1 của Nghị quyết và khoản 1 của Dự thảo sửa đổi thành khoản 2 của Nghị quyết.

Hai là, bổ sung tại khoản 1 Điều 6 Dự thảo như sau: “1. Phạt cọc là thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật, nếu bên nhận đặt cọc từ chối giao kết, thực hiện hợp đồng thì ngoài việc phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc tài sản đặt cọc còn phải trả cho bên đặt cọc một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc (phù hợp theo vế câu thứ ba quy định tại khoản 2 Điều 328 BLDS).

Thứ ba, tác giả đồng tình theo phương án 1 tại khoản 3 của Dự thảo, kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 5 của Dự thảo và sửa đổi, bổ sung khoản 3 của Dự thảo cụ thể như sau:

“3. Bên đặt cọc và bên nhận đặt cọc có thể thỏa thuận mức phạt cọc với mức “một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 360, Điều 361 Bộ luật Dân sự là các thiệt hại xảy ra nếu có mà lợi ích lẽ ra bên có quyền được hưởng nếu giao kết hoặc hợp đồng được thực hiện” quy định tại khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự; các thiệt hại xảy ra nếu có mà lợi ích lẽ ra bên đặt cọc được hưởng nếu giao kết hoặc hợp đồng được thực hiện không được vượt quá bốn lần “khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc”. Khi giải quyết tranh chấp về phạt cọc quy định tại khoản này, Tòa án chỉ chấp nhận phạt cọc tối đa bằng năm lần “khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc”.

“5. Tòa án xem xét, quyết định phạt cọc theo quy định tại khoản 2 Điều 328 Bộ luật Dân sự và hướng dẫn tại khoản 1 đến khoản 4 Điều này, không tính lãi đối với khoản tiền phạt cọc”.

Kết luận

Phạt cọc và xác định giá trị phạp cọc theo quy định tại khoản 2 Điều 328 BLDS 2015 còn có nhiều cách hiểu, nhận thức và vận dụng khác nhau. Do đó, việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đặt cọc trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần thiết; Nghị quyết hướng dẫn được xây dựng dựa trên nguyên tắc chung trong quan hệ pháp luật dân sự “trong giao dịch dân sự, thỏa thuận giữa các bên phải được xác lập một cách thiện chí, trung thực, tự nguyện, bình đẳng”, bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia giao dịch dân sự một cách công bằng, bình đẳng “mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản”.

Tác giả: ThS. NGUYỄN HỮU DUYÊN (Thẩm phán TAND khu vực 12 - Đắk Lắk)

Nguồn: https://tapchitoaan.vn/gia-tri-phat-coc-va-de-xuat-gop-y-ve-gia-tri-phat-coc-theo-du-thao-nghi-quyet-%E2%80%9Chuong-dan-ap-dung-mot-so-quy-dinh-cua-phap-luat-trong-giai-quyet-tranh-chap-ve-dat-coc%E2%80%9D14404.html

Bài viết liên quan